Trong Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa XIII, các đại biểu Quốc hội đã trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế.
Theo Tờ trình, hiện nay nền kinh tế của nước ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, bao gồm tình trạng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và người dân, nhu cầu tổng cầu tăng chậm, tăng trưởng tín dụng thấp, sự phục hồi và phát triển của các thị trường cũng diễn ra chậm, và lượng hàng tồn kho ở nhiều lĩnh vực vẫn còn lớn. Ngoài ra, tình hình thế giới và khu vực đang phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế – xã hội của nước ta.
Trong 9 tháng vừa qua, có tổng cộng 48,330 doanh nghiệp buộc phải giải thể hoặc tạm ngừng hoạt động, tăng 13.8% so với cùng kỳ năm 2013. Con số này bao gồm 7,027 doanh nghiệp đã giải thể, 8,440 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, và 32,863 doanh nghiệp đang chờ đợi thủ tục giải thể hoặc không đăng ký.
Nền kinh tế của Việt Nam đang ngày càng sâu rộng hội nhập vào nền kinh tế thế giới, do đó cần thiết phải có các chính sách phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và cam kết quốc tế hỗ trợ tích cực hơn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, cũng như hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam để họ khai thác tối đa lợi thế và cơ hội trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Điều này đảm bảo tính nhất quán của chính sách và phản ánh xu hướng phát triển của nền kinh tế.
Do đó, việc sửa đổi và bổ sung một số điều trong các Luật thuế hiện hành là cần thiết.
Do đó, Chính phủ đề xuất Quốc hội thông qua dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều trong các Luật về thuế như sau: sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN); sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN); sửa đổi, bổ sung Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT); sửa đổi, bổ sung Luật Thuế tài nguyên; và sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế.
Trong Tờ trình được trình bày bởi Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, cũng được nhấn mạnh rằng, dựa trên các tính toán, việc thực hiện các sửa đổi thuế như đã nêu trên sẽ có ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước như sau
Về thuế TNDN, tính toán dự kiến sẽ có sự giảm thu ngân sách khoảng 2.700 tỷ đồng. Trong đó:
- Khoảng 1.800 tỷ đồng là do việc bổ sung quy định về nguyên tắc áp dụng ưu đãi thuế TNDN.
- Khoảng 400 tỷ đồng là do việc bổ sung chính sách ưu đãi đối với Công nghệ cao và CNHT.
- Khoảng 20-30 tỷ đồng là do không thu thuế trùng đối với phần thu nhập của doanh nghiệp chuyển về Việt Nam từ các dự án đầu tư ra nước ngoài.
- Khoảng 300 tỷ đồng là do việc bổ sung quy định áp dụng thuế suất 20% đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Khoảng 160 tỷ đồng là do bỏ quy định hạn chế chi phí được khấu trừ cho chi quảng cáo, khuyến mại và các chi phí tương tự.
Về thuế TNCN, theo tính toán dự kiến sẽ có sự giảm thu ngân sách khoảng 270 tỷ đồng. Trong đó:
- Khoảng 20 tỷ đồng là do hỗ trợ cho cá nhân là lao động Việt Nam làm thuyền viên làm thuê cho các hãng tàu nước ngoài hoặc hãng tàu Việt Nam vận tải quốc tế.
- 50 tỷ đồng là do miễn thuế TNCN đối với thu nhập của chủ tàu từ hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ phục vụ hoạt động khai thác thủy sản xa bờ.
- Khoảng 200 tỷ đồng là do bỏ quy định thu thuế TNCN đối với cá nhân trúng thưởng trong casino.
- Tuy nhiên, cùng với điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt, dự kiến năm 2015 sẽ tăng thu khoảng 571 tỷ đồng.
Về thuế GTGT, dự kiến hàng năm sẽ sử dụng khoảng 175 tỷ đồng/năm từ việc hoàn thuế GTGT của tàu dùng để khai thác thủy sản xa bờ, khoảng 800 tỷ đồng/năm để hoàn thuế cho hàng hoá mua vào hoặc nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường. Cũng có khoảng 300 tỷ đồng được dự kiến hoàn thuế do bổ sung thức ăn chăn nuôi vào đối tượng không chịu thuế GTGT.
Tuy nhiên, dự kiến sẽ có sự giảm thu ngân sách khoảng 900 – 1.000 tỷ đồng/năm do thực hiện không thu thuế GTGT đối với mặt hàng thức ăn chăn nuôi và phân bón.
Về việc không thu thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên sử dụng cho nông, lâm, ngư, diêm nghiệp: Sửa đổi này không ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước.
Về việc xóa nợ tiền phạt chậm nộp thuế phát sinh trước ngày 01/7/2013: Dự kiến số tiền phạt chậm nộp sẽ được xử lý khoảng 4.800 tỷ đồng.
Đối với việc sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), trong đó bao gồm việc bổ sung quy định ưu đãi thuế TNDN đối với công nghiệp hỗ trợ (CNHT), Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng đã thông tin rằng trong thời gian gần đây, để thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực trọng tâm trong ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT), Chính phủ đã áp dụng một số chính sách ưu đãi và khuyến khích.
Tuy nhiên, các biện pháp ưu đãi hiện chỉ tập trung vào thuế nhập khẩu và việc tiếp cận vốn tín dụng. Các ưu đãi liên quan đến thuế TNDN, thuê đất và sử dụng đất hiện chưa đủ để thúc đẩy doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT tăng cường và mở rộng đầu tư. Thực tế, dù lĩnh vực CNHT đang phát triển nhưng vẫn chưa được hưởng ưu đãi thuế TNDN theo quy định hiện hành.
Dữ liệu thống kê cho thấy tỷ lệ cung ứng nguyên liệu trong nước cho một số ngành kinh tế chính tại Việt Nam hiện đang ở mức rất thấp. Trong 8 tháng đầu năm 2014, tổng giá trị nhập khẩu của cả nước đạt 94,162 tỷ USD (tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2013), trong khi xuất khẩu đạt 97,233 tỷ USD (tăng 14,4%), tạo ra dư thặng 3,171 tỷ USD. Riêng với thị trường Trung Quốc, tổng giá trị nhập khẩu đến từ Trung Quốc là 27,162 tỷ USD, trong khi xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 9,833 tỷ USD, tạo ra một tình trạng nhập siêu lên đến 17,331 tỷ USD.
Theo thống kê của Bộ Tài chính, vào năm 2013, tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam đạt 132,125 tỷ USD, trong khi xuất khẩu ra nước ngoài đạt 132,134 tỷ USD. Đối với thị trường Trung Quốc, kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc là 36,954 tỷ USD, trong khi xuất khẩu đến Trung Quốc đạt 13,259 tỷ USD, dẫn đến một tình trạng nhập siêu lên đến 23,695 tỷ USD.
Trong 8 tháng đầu năm 2014, trị giá nhập khẩu của các nhóm hàng bao gồm máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng; cùng nhóm hàng nguyên liệu và phụ liệu như xăng dầu, sắt thép, phân bón, vật liệu dệt may đã đạt 36,64 tỷ USD, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm 2013. Trong số này, Trung Quốc vẫn tiếp tục là thị trường lớn nhất cung cấp các nhóm hàng này cho Việt Nam, với trị giá đạt 12,86 tỷ USD (chiếm khoảng 35% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước) trong 8 tháng qua.
Ngoài ra, để hiệu quả hóa thực thi các Hiệp định chuẩn bị ký kết như TPP, Việt Nam – EU, Việt Nam – Hàn Quốc, … cần yêu cầu rằng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam phải đạt tỷ lệ 60 – 65% nguyên liệu phải được sản xuất tại Việt Nam để được hưởng ưu đãi.
Vì vậy, để giảm nhập siêu và thúc đẩy hiệu quả thực thi các cam kết quốc tế và các hiệp định mà Việt Nam đang tham gia đàm phán, cũng như để tăng cường phát triển sản xuất kinh doanh hàng hóa đối thủ cạnh tranh trên thị trường trong nước với hơn 90 triệu dân và mức tăng trưởng sức mua trung bình 18 – 20% mỗi năm, việc áp dụng các chính sách phát triển trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là cần thiết.
Điều này sẽ giúp CNHT trở thành trụ cột trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, đồng thời góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước.
Theo đó, Chính phủ đề xuất cho Quốc hội bổ sung các chính sách ưu đãi thuế TNDN cho sản xuất sản phẩm trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (CNHT) như sau: Doanh nghiệp sẽ được áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm đối với thu nhập từ việc thực hiện các dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục ưu tiên phát triển của CNHT. Ngoài ra, sẽ được miễn thuế trong 04 năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo.
Trong trường hợp đầu tư mở rộng sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục ưu tiên phát triển của CNHT, nếu đáp ứng một trong ba tiêu chí về đầu tư mở rộng quy định tại Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13, doanh nghiệp sẽ được hưởng các ưu đãi thuế (bao gồm thuế suất và thời gian miễn, giảm) theo dự án đang hoạt động cho thời gian còn lại (nếu có).
Đồng thời, để đảm bảo chính sách ưu đãi thuế được áp dụng đúng cho các sản phẩm CNHT cần ưu tiên sản xuất, nhằm tận dụng lợi thế cạnh tranh, khả năng sản xuất trong nước và tiềm năng xuất khẩu, cũng như khả năng tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu và cung ứng sản phẩm, thiết bị cho các công ty đa quốc gia, Chính phủ đề xuất cho Quốc hội quy định tại dự thảo Luật các tiêu chí và nguyên tắc xác định các sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển được hưởng ưu đãi thuế. Các tiêu chí và nguyên tắc này bao gồm:
- Sản phẩm CNHT cho công nghệ cao theo quy định của Luật Công nghệ cao.
- Sản phẩm CNHT cho sản xuất sản phẩm cơ khí chế tạo và sản phẩm CNHT cho linh kiện điện tử, phụ tùng, cơ khí ô tô, là những sản phẩm tính đến ngày 01/01/2015 chưa được sản xuất trong nước hoặc đã được sản xuất nhưng chưa đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật.
- Sản phẩm CNHT cho ngành dệt may, da giày, là những sản phẩm phụ tùng, linh kiện, phụ kiện chưa được sản xuất trong nước tính đến ngày 01/01/2015 hoặc đã sản xuất nhưng chưa đạt được tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật.
Dựa trên các tiêu chí được nêu trên, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng đã thông báo rằng Chính phủ đề xuất Quốc hội giao cho Chính phủ nhiệm vụ quy định cụ thể Danh mục các sản phẩm CNHT được ưu tiên phát triển.
Nguồn: Tổng hợp